CÔNG CUỘC HUẤN LUYỆN PHAN SINH – NGUỒN HỨNG KHỞI
“Anh em cần nhớ mình là người nghèo và khách lạ ở trần gian này.[1]
“Anh em cần nhớ mình là người nghèo và khách lạ ở trần gian này.[1]
Khi còn nhỏ, tôi thường tham gia những chuyến hành hương đến nhiều đền thánh khác nhau ở Ba Lan. Lúc đó, tôi hoàn toàn không hiểu được lý do mà ba mẹ dẫn tôi theo trong những chuyến hành hương này. Tôi thường bị ốm sau những chuyến đi; do bởi chúng tôi có thể ngủ ở bất cứ đâu cũng như ăn bất cứ thứ gì trên hành trình. Tôi vẫn còn nhớ những quảng trường đông người qua lại và những ngôi thánh đường chật kín người, còn bản thân tôi cảm thấy lạc lõng giữa đám đông mà chẳng hiểu được mục đích cũng như ý nghĩa của những chuyến hành hương này.
Ngay cả khi trở thành một tu sĩ trẻ, tôi vẫn rất ngạc nhiên khi thấy những khách hành hương dừng chân bên đường để chăm sóc những vết phồng rộp dưới lòng bàn chân của họ. Và sau cả một quãng thời gian dài, dường như hình thức đạo đức này trở nên xa lạ đối với tôi. Vì vậy, chủ đề về hành hương trong căn tính Phan Sinh là điều tôi muốn tập trung tìm hiểu. Tại sao vậy? Vì tôi đã cảm nhận được những ơn lành mà những người hành hương đã nhận được từ Thiên Chúa. Riêng cá nhân tôi có một hành trình dài với những suy tư liên quan đến chủ đề này.
Hành hương là một việc thực hành phổ biến trong nhiều tôn giáo trên thế giới. Đây là một yếu tố quan trọng trong lễ nghi thờ phượng. Hành hương có thể được định nghĩa là việc “cầu nguyện trên cuộc hành trình” (Praying with your feet). Kinh Thánh diễn tả hành hương như một cuộc hành trình của các tín hữu đến một nơi được Thiên Chúa thánh hiến với sự hiện diện sống động của Người. Tham gia một cuộc hành hương nhằm diễn tả hành động tìm kiếm Thiên Chúa và khao khát kết hợp với Ngài. Do đó, người tham gia cuộc hành hương cần phải chuẩn bị: thanh tẩy tâm hồn, hướng tư tưởng và khát vọng của bản thân lên Thiên Chúa, từ bỏ tội lỗi và quay lưng lại với những bận tâm thái quá về đời sống trần thế. Hành hương có thể nhằm mục đích thờ phượng hoặc sám hối. Mục đích của hành hương là đối thoại với Thiên Chúa, đồng thời bao gồm cả việc bố thí cho người nghèo như một của lễ dâng lên Thiên Chúa hay góp phần vào việc bảo trì đền thờ. Nhưng cũng có một số người tham gia những chuyến hành hương chỉ vì truyền thống của cha ông. Với những trường hợp này, cuộc hành hương chỉ mang tính vụ hình thức, và thường chẳng mang lại bất cứ sự thay đổi nào trong đời sống thiêng liêng của họ, đây cũng là điều các ngôn sứ đã từng lên án (x. Is 1,10-20). Lịch sử các cuộc hành hương trong Kinh Thánh cho chúng ta thấy, khi Thiên Chúa tuyển chọn một người, Ngài ban cho họ một ơn gọi, và cuộc hành hương trở thành một phần tất yếu trong cuộc đời của họ. Khi đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, người được gọi phải rời bỏ những gì là quen thuộc với chính mình và lên đường thực thi kế hoạch của Thiên Chúa. Trong thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, đích điểm của cuộc hành hương rất quan trọng vì nó thiết lập hướng đi cho cuộc hành trình. Tuy vậy, việc đạt đến đích điểm chỉ là phần trang trí bên ngoài. Điều quan trọng là mối tương quan giữa người hành hương với Thiên Chúa. Mối tương quan này được triển nở trong suốt chuyến hành trình. Chẳng bao giờ là muộn màng khi từ bỏ những thứ tạo cho chúng ta sự thoải mái, ổn định và thân thuộc. Trong cuộc hành trình của đời sống thiêng liêng, người hành hương ký kết với Thiên Chúa một giao ước, và giao ước này trở thành một tiến trình khiến cho người hành hương không ngừng hiến dâng bản thân mình cho Thiên Chúa. Kinh Thánh cho chúng ta biết biến cố và bản chất khác nhau của những cuộc hành hương của Chúa Giêsu, Đức Maria, Thánh Cả Giuse và các Tông đồ. Cuộc hành hương cuối cùng Chúa Giêsu thực hiện lên Giêrusalem được khép lại với cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Người. Điều này khiến cho các Tông đồ hướng tâm hồn đến một ngôi đền thờ mới, không phải là một đền thờ nơi trần thế này nữa, mà chính là Thân Thể của Chúa Giêsu. Đối với các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành Ngôi Đền Thánh đích thực. Do đó, những ai đón nhận Ngài như là Thiên Chúa của họ thì sống đời mình như một cuộc hành hương, một hành trình có Chúa cùng đồng hành và bước đi đến đích điểm là chính Thiên Chúa. Chính các Tông đồ đã trải qua bao gian lao vất vả cùng niềm hân hoan khi bước đi cùng với Chúa Giêsu. Sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh và các Tông đồ được lãnh nhận Chúa Thánh Thần, một đích điểm mới của chuyến hành hương xuất hiện, đó là: sứ vụ loan báo Tin Mừng.[2]
Cuộc sống hàng ngày của người môn đệ Chúa Giêsu được hiểu như là hành trình tâm linh hướng lên cùng Thiên Chúa và dẫn đưa người khác đến với Người. Việc tham gia một cuộc hành hương biểu thị và làm sống động đức tin của người kitô hữu. Hơn thế nữa, cuộc hành hương còn khơi dậy lòng đạo đức của các kitô hữu, khuyến khích việc thực hành khổ chế, ăn năn sám hối vì những yếu đuối họ đã trót phạm, tận hiến cuộc đời cho việc chuyên tâm cầu nguyện và đổi mới tinh thần. Những điều này giúp chúng ta luôn nhớ rằng việc chúng ta tham gia cuộc hành hương để bước theo dấu chân Chúa Kitô đến cùng Chúa Cha, chúng ta luôn cần đến sức mạnh của Chúa Thánh Thần trợ giúp.[3] Đây chính là kinh nghiệm mà Người Cha Chí Ái – Phanxicô đã chia sẻ. Hành hương chính là một phương thế quan trọng giúp thánh nhân thực hành lý tưởng Phúc Âm mà ngài đã sống. Có lẽ trước khi bắt đầu đời sống hoán cải, ngài đã quen thuộc với một số tuyến đường hành hương trên hành trình buôn bán của mình. Ngài đã hành hương đến Rôma, nơi ngài quyết định trải nghiệm cuộc sống của những người ăn xin, khi xin Đức Thánh Cha chuẩn nhận lối sống của ngài. Sau khi được ơn hoán cải, ngài chuyển từ nhà thờ đã được trùng tu này đến nhà thờ khác, từ túp lều này đến túp lều khác. Khi số anh em gia nhập Huynh đệ đoàn ngày càng tăng, ngài đến gặp Đức Giám Mục Rôma để xin chuẩn nhận lối sống mà ngài cùng với anh em đang hết lòng theo đuổi. Trong suốt phần đời còn lại, ngài đã tham gia những chuyến hành hương khác nhau: đến mộ các thánh Tông đồ ở Rôma, đến Đất Thánh, và có lẽ đến cả mộ thánh Giacôbê Tông đồ nữa. Ngài đến đó để xin Chúa ban cho ngài và các anh em theo ngài những ân sủng cần thiết. Những chuyến hành hương giúp cho thánh nhân nhận ra phúc lành và sự che chở của Thiên Chúa Toàn Năng qua việc thực hành thánh đức nghèo khó; đó cũng là dịp thuận tiện giúp thánh nhân thay đổi bản thân. Đây cũng là cơ hội để ngài gặp gỡ mọi người và rao giảng Phúc Âm cho họ. Với một tấm lòng nhân hậu và bình an, thánh Phanxicô đã rao giảng những cảm nghiệm của riêng ngài trong suốt những chuyến hành hương, đó là: sự cần thiết là phải ăn năn sám hối và sống đời hoán cải. Với kinh nghiệm hành hương của chính mình được hướng dẫn bởi Thiên Chúa, ngài đã xin Đức Giáo Hoàng ban ơn toàn xá cho những ai đến hành hương tại Nhà nguyện Đức Bà Các Thiên Thần ở Portiuncula. Ngài tin rằng ân sủng của Thiên Chúa được thông ban cho mọi người thông qua Giáo Hội, nhất là qua những chuyến hành hương và ân sủng này dành cho tất cả mọi người.
Anh em tiếp tục sống lối sống lữ hành và khách lạ ở đời này theo dấu chân của Đấng Sáng Lập là Vị Hiền Phụ Sốt Mến – Phanxicô. Điều này được thể hiện qua việc miệt mài thi hành sứ vụ, dấn thân vào việc cải hóa thế giới và rao giảng Tin Mừng. Các tu sĩ Phan Sinh khi đi ra giữa đời, phải không ngừng thực hiện hành vi sám hối, là việc sống đời hoán cải. Anh em đi ra giữa đời với thái độ khiêm nhu không hề mong cầu thống trị hay lãnh đạo người khác. Họ phải trở thành khí cụ của sự bình an, khiêm nhường, không đôi co cãi vã, lịch sự, vui tươi, sẵn sàng ăn bất cứ thứ gì người ta dọn cho và thích nghi trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống: anh em cũng không được phàn nàn rằng không có cà phê hay không có sẵn món tráng miệng sữa chua yêu thích cho bữa ăn sáng, hay không có nước nóng trong phòng tắm… Anh em tham gia cuộc hành hương với mục đích mang lại hoà bình cho thế giới, tất cả những hoạt động này đều được thực hiện trong lòng Giáo hội, và trong tình huynh đệ với muôn loài thụ tạo. Anh em phải phó thác trọn vẹn đời mình trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Chính vì thế, việc anh em sống rày đây mai đó mang một ý nghĩa thần học sâu xa, nó dạy anh em nhìn nhận thực tại của thế giới này như một thực tại chuyển tiếp đến thực tại thiên đàng.
Trong cộng đoàn anh em tiên khởi, khả năng anh em sở hữu một thứ gì hay muốn định cư tại một nơi cố định nào đó đều sẽ bị loại trừ. Ngay cả với các anh em muốn sống ở ẩn viện trong một khoảng thời gian, mục đích cuối cùng của thời gian đó là người anh em phải trở về với đời sống cộng đoàn. Thực vậy, mục đích của cuộc hành hương là để cho mình được Phúc Âm Hóa và anh em Phúc Âm Hóa thế giới. Nhưng trong cuộc hành hương đầu tiên, anh em đã đến với các Kitô hữu. Với mục đích giúp anh chị em mình ngày càng kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và Giáo hội. Khi anh em đến với người Hồi giáo và lương dân, tự bản chất cuộc hành hương của anh em nhắm đến mục đích truyền giáo, xét theo nghĩa chặt. Truyền giáo chính là cách thức tiên quyết và quan trọng nhất khiến anh em trở thành “người tu sĩ Phan Sinh với sợi dây thắt lưng có ba nút thắt”: giới thiệu Chúa đến với tha nhân trong bầu khí bình an và đệ huynh. Khó khăn nhất của cuộc hành hương là: cuộc đời của anh em trở thành lữ hành và khách lạ ở đời này để đời sống của anh em trở thành lời loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Với nhiều anh em, việc làm chứng về các thực tại Nước Thiên Chúa giữa lòng thời đại hôm nay là việc làm hết sức khó khăn nếu không thực hiện một số hoạt động mục vụ tông đồ, bác ái xã hội hoặc văn hóa. Có đôi khi, anh em nghi ngờ việc mình trở nên dấu chỉ cho con người thời đại và là một hoạt động gây lãng phí thời gian. Trong cuộc hành hương huynh đệ này, thánh Phanxicô thấy rằng việc xây dựng các tu viện, các thánh đường, đó là những hoạt động khó tránh khỏi. Vì thế, ngài nhắc nhở anh em rằng hãy thực hiện tất cả các hoạt động trên theo cách thức giản dị, nghèo khó, vì anh em là những người lữ hành và khách lạ.[4]
Thánh Phanxicô sợ các anh em của ngài thích lối sống ổn định và tiện nghi; bên cạnh những cám dỗ khác, việc sống ổn định và tiện nghi là một mối nguy hại đến tinh thần nghèo khó. Ngài cũng ý thức rằng việc anh em quá chú tâm vào một số chiếm hữu dưới nhiều hình thức khác nhau chi phối đời sống của anh em: sự chuẩn y của Đức Giáo Hoàng, đặc quyền, nguồn tài chính ổn định… Những sự đãi ngộ này thực sự chống lại lý tưởng sống nghèo khó Tin Mừng. Việc anh em đánh mất tinh thần sống nghèo khó dễ dẫn đến khuynh hướng các anh em không còn động lực để dấn thân và sẵn sàng lên đường, mà điều này vốn tuỳ thuộc vào sức lao động [tay chân hay trí óc] hàng ngày của anh em hay việc anh em chạy đến bàn ăn của Thiên Chúa khi túng thiếu, nghĩa là đi khất thực, anh em hãy sẵn lòng đón nhận của bố thí và chia sẻ với người khác. Theo dòng thời gian, những khuynh hướng này đã trở thành vấn nạn gây nhức nhối trong các cộng đoàn khi các anh em khá thoải mái tham gia những cuộc hành hương. Trong nhiều trường hợp, các Anh Phụ trách Tu viện không còn nhận ra đâu là tinh thần hành hương nguyên thuỷ của Đấng Sáng Lập nữa khi cho phép các anh em thuộc quyền tham gia các cuộc hành hương, mà những chuyến đi như thế sẽ dẫn các anh em đi đến đâu và đến với ai? Nhu cầu ham muốn đi du lịch đó đây là một hình thức cám dỗ gây huỷ hoại đời sống huynh đệ đoàn nhiều nhất. Các anh Bề trên phải nghiêm cấm các anh em thuộc quyền tham gia các cuộc hành hương mà không có sự cho phép của các anh hữu trách trực tiếp.[5] Điều quan trọng chúng ta cần phải nhớ khi bắt đầu một cuộc hành trình là chúng ta phải biện phân để xác định cho được lý do và mục đích mà chúng ta muốn lên đường. Điều này hoàn toàn hợp lý đối với huynh đệ đoàn chúng ta khi đưa ra quyết định tham gia một cuộc hành hương. Xét về chiều kích nội tại, chuyến đi này ảnh hưởng trực tiếp trên ơn gọi của chúng ta, còn xét về chiều kích ngoại tại, nó còn liên quan đến việc di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Trong cả hai chiều kích, việc anh em tham gia cuộc hành hương không phải để thoả mãn nhu cầu thích đi du lịch hay ham muốn phiêu lưu. Phân định có nghĩa là lắng nghe điều Thiên Chúa muốn chúng ta làm, Chúa muốn chúng ta làm gì, làm ở đâu và những điều gì chúng ta cần phải tránh. Cuộc Hành hương Phan Sinh mang một phong cách rất cụ thể: anh em chúng ta lắng nghe giáo huấn của Giáo hội, đồng thuận với tiếng nói của huynh đệ đoàn (qua Hiến Pháp, Nội Quy Tỉnh Dòng [hoặc Phụ Tỉnh]…). Anh em cũng hãy lắng nghe tiếng nói của Chúa trong tâm hồn, và có thể chia sẻ những tâm tình ấy với những người thích hợp. Anh em hãy vui lòng đón nhận quyết định của bề trên (chính Anh là người cuối cùng đưa ra quyết định, nhưng Anh cũng lắng nghe ý kiến của những anh em khác). Mọi người khi tham gia tiến trình phân định này vẫn có thể mắc sai lầm, nhưng không vì thế mà chúng ta không sống lời khấn vâng lời.[6]
Nhìn vào những khuynh hướng trong đời sống chúng ta, mỗi chúng ta là một homo viator (người hành hương). Có thể nói, việc hành hương vốn đã được Thiên Chúa ghi khắc trong DNA trong bản chất con người chúng ta. Việc bắt đầu một hành trình gắn liền với quy luật phát triển của con người chúng ta: bất cứ ai không rời khỏi tổ ấm thì không thể trưởng thành được. Nhiều anh em vịn vào quy luật sinh tồn này khi bày tỏ nhu cầu với các bề trên muốn chuyển từ tu viện này sang tu viện khác. Một vài anh em khác lại có khuynh hướng ngược lại: thích ổn định để thư giãn bên lò sưởi dưới tiết trời se lạnh với đôi giày thật ấm áp. Với những anh em theo khuynh hướng thứ hai chịu khá nhiều tác động khi họ phải chuyển đến môi trường sống mới, vì họ đã trở nên gắn bó khắng khít với nơi ở cũ như mái ấm của họ, với những người xung quanh và với những sứ vụ đã rất đỗi quen thuộc. Bên cạnh đó, cũng có những anh em có khuynh hướng quân bình hơn. Họ có thể vui lòng tận hưởng sự ấm áp toả ra từ lò sưởi nhưng cũng rất sẵn lòng chịu đựng những gian khổ của cuộc hành trình mới. Qua hai khuynh hướng kể trên, câu hỏi đặt ra là: Vậy khuynh hướng sống của tôi là gì? Hai khuynh hướng trên chẳng có khuynh hướng nào đều tốt hoặc xấu cả. Nhưng việc nhận biết những khuynh hướng này giúp chúng ta dễ dàng nhận diện những cám dỗ thường trực luôn bủa vậy lấy chúng ta trong đời sống. Hành hương là một phần không thể thiếu trong tiến trình huấn luyện đời sống tu trì và đời sống kitô hữu của chúng ta. Do đó, chúng ta cần phải ao ước được Thần Khí Chúa ở lại và tác động cách thánh thiện nơi mình[7], hầu giúp chúng ta bước đi trên đường lối của Thiên Chúa. Hành hương không phải để thoả mãn khát vọng muốn khám phá đó đây, nhưng đó là một hành trình phát triển tâm linh cách tiệm tiến. Trong mọi hoàn cảnh của đời sống, chúng ta hãy cầu xin Chúa giú[8]p chúng ta biết bản thân phải làm gì. Vì tôi nghĩ rằng dù xét ở phương diện cá nhân hay cộng đoàn tu trì, chúng ta đều háo hức muốn lên đường.
Ngay cả khi trở thành một tu sĩ trẻ, tôi vẫn rất ngạc nhiên khi thấy những khách hành hương dừng chân bên đường để chăm sóc những vết phồng rộp dưới lòng bàn chân của họ. Và sau cả một quãng thời gian dài, dường như hình thức đạo đức này trở nên xa lạ đối với tôi. Vì vậy, chủ đề về hành hương trong căn tính Phan Sinh là điều tôi muốn tập trung tìm hiểu. Tại sao vậy? Vì tôi đã cảm nhận được những ơn lành mà những người hành hương đã nhận được từ Thiên Chúa. Riêng cá nhân tôi có một hành trình dài với những suy tư liên quan đến chủ đề này.
Hành hương là một việc thực hành phổ biến trong nhiều tôn giáo trên thế giới. Đây là một yếu tố quan trọng trong lễ nghi thờ phượng. Hành hương có thể được định nghĩa là việc “cầu nguyện trên cuộc hành trình” (Praying with your feet). Kinh Thánh diễn tả hành hương như một cuộc hành trình của các tín hữu đến một nơi được Thiên Chúa thánh hiến với sự hiện diện sống động của Người. Tham gia một cuộc hành hương nhằm diễn tả hành động tìm kiếm Thiên Chúa và khao khát kết hợp với Ngài. Do đó, người tham gia cuộc hành hương cần phải chuẩn bị: thanh tẩy tâm hồn, hướng tư tưởng và khát vọng của bản thân lên Thiên Chúa, từ bỏ tội lỗi và quay lưng lại với những bận tâm thái quá về đời sống trần thế. Hành hương có thể nhằm mục đích thờ phượng hoặc sám hối. Mục đích của hành hương là đối thoại với Thiên Chúa, đồng thời bao gồm cả việc bố thí cho người nghèo như một của lễ dâng lên Thiên Chúa hay góp phần vào việc bảo trì đền thờ. Nhưng cũng có một số người tham gia những chuyến hành hương chỉ vì truyền thống của cha ông. Với những trường hợp này, cuộc hành hương chỉ mang tính vụ hình thức, và thường chẳng mang lại bất cứ sự thay đổi nào trong đời sống thiêng liêng của họ, đây cũng là điều các ngôn sứ đã từng lên án (x. Is 1,10-20). Lịch sử các cuộc hành hương trong Kinh Thánh cho chúng ta thấy, khi Thiên Chúa tuyển chọn một người, Ngài ban cho họ một ơn gọi, và cuộc hành hương trở thành một phần tất yếu trong cuộc đời của họ. Khi đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, người được gọi phải rời bỏ những gì là quen thuộc với chính mình và lên đường thực thi kế hoạch của Thiên Chúa. Trong thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, đích điểm của cuộc hành hương rất quan trọng vì nó thiết lập hướng đi cho cuộc hành trình. Tuy vậy, việc đạt đến đích điểm chỉ là phần trang trí bên ngoài. Điều quan trọng là mối tương quan giữa người hành hương với Thiên Chúa. Mối tương quan này được triển nở trong suốt chuyến hành trình. Chẳng bao giờ là muộn màng khi từ bỏ những thứ tạo cho chúng ta sự thoải mái, ổn định và thân thuộc. Trong cuộc hành trình của đời sống thiêng liêng, người hành hương ký kết với Thiên Chúa một giao ước, và giao ước này trở thành một tiến trình khiến cho người hành hương không ngừng hiến dâng bản thân mình cho Thiên Chúa. Kinh Thánh cho chúng ta biết biến cố và bản chất khác nhau của những cuộc hành hương của Chúa Giêsu, Đức Maria, Thánh Cả Giuse và các Tông đồ. Cuộc hành hương cuối cùng Chúa Giêsu thực hiện lên Giêrusalem được khép lại với cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Người. Điều này khiến cho các Tông đồ hướng tâm hồn đến một ngôi đền thờ mới, không phải là một đền thờ nơi trần thế này nữa, mà chính là Thân Thể của Chúa Giêsu. Đối với các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành Ngôi Đền Thánh đích thực. Do đó, những ai đón nhận Ngài như là Thiên Chúa của họ thì sống đời mình như một cuộc hành hương, một hành trình có Chúa cùng đồng hành và bước đi đến đích điểm là chính Thiên Chúa. Chính các Tông đồ đã trải qua bao gian lao vất vả cùng niềm hân hoan khi bước đi cùng với Chúa Giêsu. Sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh và các Tông đồ được lãnh nhận Chúa Thánh Thần, một đích điểm mới của chuyến hành hương xuất hiện, đó là: sứ vụ loan báo Tin Mừng.[2]
Cuộc sống hàng ngày của người môn đệ Chúa Giêsu được hiểu như là hành trình tâm linh hướng lên cùng Thiên Chúa và dẫn đưa người khác đến với Người. Việc tham gia một cuộc hành hương biểu thị và làm sống động đức tin của người kitô hữu. Hơn thế nữa, cuộc hành hương còn khơi dậy lòng đạo đức của các kitô hữu, khuyến khích việc thực hành khổ chế, ăn năn sám hối vì những yếu đuối họ đã trót phạm, tận hiến cuộc đời cho việc chuyên tâm cầu nguyện và đổi mới tinh thần. Những điều này giúp chúng ta luôn nhớ rằng việc chúng ta tham gia cuộc hành hương để bước theo dấu chân Chúa Kitô đến cùng Chúa Cha, chúng ta luôn cần đến sức mạnh của Chúa Thánh Thần trợ giúp.[3] Đây chính là kinh nghiệm mà Người Cha Chí Ái – Phanxicô đã chia sẻ. Hành hương chính là một phương thế quan trọng giúp thánh nhân thực hành lý tưởng Phúc Âm mà ngài đã sống. Có lẽ trước khi bắt đầu đời sống hoán cải, ngài đã quen thuộc với một số tuyến đường hành hương trên hành trình buôn bán của mình. Ngài đã hành hương đến Rôma, nơi ngài quyết định trải nghiệm cuộc sống của những người ăn xin, khi xin Đức Thánh Cha chuẩn nhận lối sống của ngài. Sau khi được ơn hoán cải, ngài chuyển từ nhà thờ đã được trùng tu này đến nhà thờ khác, từ túp lều này đến túp lều khác. Khi số anh em gia nhập Huynh đệ đoàn ngày càng tăng, ngài đến gặp Đức Giám Mục Rôma để xin chuẩn nhận lối sống mà ngài cùng với anh em đang hết lòng theo đuổi. Trong suốt phần đời còn lại, ngài đã tham gia những chuyến hành hương khác nhau: đến mộ các thánh Tông đồ ở Rôma, đến Đất Thánh, và có lẽ đến cả mộ thánh Giacôbê Tông đồ nữa. Ngài đến đó để xin Chúa ban cho ngài và các anh em theo ngài những ân sủng cần thiết. Những chuyến hành hương giúp cho thánh nhân nhận ra phúc lành và sự che chở của Thiên Chúa Toàn Năng qua việc thực hành thánh đức nghèo khó; đó cũng là dịp thuận tiện giúp thánh nhân thay đổi bản thân. Đây cũng là cơ hội để ngài gặp gỡ mọi người và rao giảng Phúc Âm cho họ. Với một tấm lòng nhân hậu và bình an, thánh Phanxicô đã rao giảng những cảm nghiệm của riêng ngài trong suốt những chuyến hành hương, đó là: sự cần thiết là phải ăn năn sám hối và sống đời hoán cải. Với kinh nghiệm hành hương của chính mình được hướng dẫn bởi Thiên Chúa, ngài đã xin Đức Giáo Hoàng ban ơn toàn xá cho những ai đến hành hương tại Nhà nguyện Đức Bà Các Thiên Thần ở Portiuncula. Ngài tin rằng ân sủng của Thiên Chúa được thông ban cho mọi người thông qua Giáo Hội, nhất là qua những chuyến hành hương và ân sủng này dành cho tất cả mọi người.
Anh em tiếp tục sống lối sống lữ hành và khách lạ ở đời này theo dấu chân của Đấng Sáng Lập là Vị Hiền Phụ Sốt Mến – Phanxicô. Điều này được thể hiện qua việc miệt mài thi hành sứ vụ, dấn thân vào việc cải hóa thế giới và rao giảng Tin Mừng. Các tu sĩ Phan Sinh khi đi ra giữa đời, phải không ngừng thực hiện hành vi sám hối, là việc sống đời hoán cải. Anh em đi ra giữa đời với thái độ khiêm nhu không hề mong cầu thống trị hay lãnh đạo người khác. Họ phải trở thành khí cụ của sự bình an, khiêm nhường, không đôi co cãi vã, lịch sự, vui tươi, sẵn sàng ăn bất cứ thứ gì người ta dọn cho và thích nghi trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống: anh em cũng không được phàn nàn rằng không có cà phê hay không có sẵn món tráng miệng sữa chua yêu thích cho bữa ăn sáng, hay không có nước nóng trong phòng tắm… Anh em tham gia cuộc hành hương với mục đích mang lại hoà bình cho thế giới, tất cả những hoạt động này đều được thực hiện trong lòng Giáo hội, và trong tình huynh đệ với muôn loài thụ tạo. Anh em phải phó thác trọn vẹn đời mình trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Chính vì thế, việc anh em sống rày đây mai đó mang một ý nghĩa thần học sâu xa, nó dạy anh em nhìn nhận thực tại của thế giới này như một thực tại chuyển tiếp đến thực tại thiên đàng.
Trong cộng đoàn anh em tiên khởi, khả năng anh em sở hữu một thứ gì hay muốn định cư tại một nơi cố định nào đó đều sẽ bị loại trừ. Ngay cả với các anh em muốn sống ở ẩn viện trong một khoảng thời gian, mục đích cuối cùng của thời gian đó là người anh em phải trở về với đời sống cộng đoàn. Thực vậy, mục đích của cuộc hành hương là để cho mình được Phúc Âm Hóa và anh em Phúc Âm Hóa thế giới. Nhưng trong cuộc hành hương đầu tiên, anh em đã đến với các Kitô hữu. Với mục đích giúp anh chị em mình ngày càng kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và Giáo hội. Khi anh em đến với người Hồi giáo và lương dân, tự bản chất cuộc hành hương của anh em nhắm đến mục đích truyền giáo, xét theo nghĩa chặt. Truyền giáo chính là cách thức tiên quyết và quan trọng nhất khiến anh em trở thành “người tu sĩ Phan Sinh với sợi dây thắt lưng có ba nút thắt”: giới thiệu Chúa đến với tha nhân trong bầu khí bình an và đệ huynh. Khó khăn nhất của cuộc hành hương là: cuộc đời của anh em trở thành lữ hành và khách lạ ở đời này để đời sống của anh em trở thành lời loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Với nhiều anh em, việc làm chứng về các thực tại Nước Thiên Chúa giữa lòng thời đại hôm nay là việc làm hết sức khó khăn nếu không thực hiện một số hoạt động mục vụ tông đồ, bác ái xã hội hoặc văn hóa. Có đôi khi, anh em nghi ngờ việc mình trở nên dấu chỉ cho con người thời đại và là một hoạt động gây lãng phí thời gian. Trong cuộc hành hương huynh đệ này, thánh Phanxicô thấy rằng việc xây dựng các tu viện, các thánh đường, đó là những hoạt động khó tránh khỏi. Vì thế, ngài nhắc nhở anh em rằng hãy thực hiện tất cả các hoạt động trên theo cách thức giản dị, nghèo khó, vì anh em là những người lữ hành và khách lạ.[4]
Thánh Phanxicô sợ các anh em của ngài thích lối sống ổn định và tiện nghi; bên cạnh những cám dỗ khác, việc sống ổn định và tiện nghi là một mối nguy hại đến tinh thần nghèo khó. Ngài cũng ý thức rằng việc anh em quá chú tâm vào một số chiếm hữu dưới nhiều hình thức khác nhau chi phối đời sống của anh em: sự chuẩn y của Đức Giáo Hoàng, đặc quyền, nguồn tài chính ổn định… Những sự đãi ngộ này thực sự chống lại lý tưởng sống nghèo khó Tin Mừng. Việc anh em đánh mất tinh thần sống nghèo khó dễ dẫn đến khuynh hướng các anh em không còn động lực để dấn thân và sẵn sàng lên đường, mà điều này vốn tuỳ thuộc vào sức lao động [tay chân hay trí óc] hàng ngày của anh em hay việc anh em chạy đến bàn ăn của Thiên Chúa khi túng thiếu, nghĩa là đi khất thực, anh em hãy sẵn lòng đón nhận của bố thí và chia sẻ với người khác. Theo dòng thời gian, những khuynh hướng này đã trở thành vấn nạn gây nhức nhối trong các cộng đoàn khi các anh em khá thoải mái tham gia những cuộc hành hương. Trong nhiều trường hợp, các Anh Phụ trách Tu viện không còn nhận ra đâu là tinh thần hành hương nguyên thuỷ của Đấng Sáng Lập nữa khi cho phép các anh em thuộc quyền tham gia các cuộc hành hương, mà những chuyến đi như thế sẽ dẫn các anh em đi đến đâu và đến với ai? Nhu cầu ham muốn đi du lịch đó đây là một hình thức cám dỗ gây huỷ hoại đời sống huynh đệ đoàn nhiều nhất. Các anh Bề trên phải nghiêm cấm các anh em thuộc quyền tham gia các cuộc hành hương mà không có sự cho phép của các anh hữu trách trực tiếp.[5] Điều quan trọng chúng ta cần phải nhớ khi bắt đầu một cuộc hành trình là chúng ta phải biện phân để xác định cho được lý do và mục đích mà chúng ta muốn lên đường. Điều này hoàn toàn hợp lý đối với huynh đệ đoàn chúng ta khi đưa ra quyết định tham gia một cuộc hành hương. Xét về chiều kích nội tại, chuyến đi này ảnh hưởng trực tiếp trên ơn gọi của chúng ta, còn xét về chiều kích ngoại tại, nó còn liên quan đến việc di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Trong cả hai chiều kích, việc anh em tham gia cuộc hành hương không phải để thoả mãn nhu cầu thích đi du lịch hay ham muốn phiêu lưu. Phân định có nghĩa là lắng nghe điều Thiên Chúa muốn chúng ta làm, Chúa muốn chúng ta làm gì, làm ở đâu và những điều gì chúng ta cần phải tránh. Cuộc Hành hương Phan Sinh mang một phong cách rất cụ thể: anh em chúng ta lắng nghe giáo huấn của Giáo hội, đồng thuận với tiếng nói của huynh đệ đoàn (qua Hiến Pháp, Nội Quy Tỉnh Dòng [hoặc Phụ Tỉnh]…). Anh em cũng hãy lắng nghe tiếng nói của Chúa trong tâm hồn, và có thể chia sẻ những tâm tình ấy với những người thích hợp. Anh em hãy vui lòng đón nhận quyết định của bề trên (chính Anh là người cuối cùng đưa ra quyết định, nhưng Anh cũng lắng nghe ý kiến của những anh em khác). Mọi người khi tham gia tiến trình phân định này vẫn có thể mắc sai lầm, nhưng không vì thế mà chúng ta không sống lời khấn vâng lời.[6]
Nhìn vào những khuynh hướng trong đời sống chúng ta, mỗi chúng ta là một homo viator (người hành hương). Có thể nói, việc hành hương vốn đã được Thiên Chúa ghi khắc trong DNA trong bản chất con người chúng ta. Việc bắt đầu một hành trình gắn liền với quy luật phát triển của con người chúng ta: bất cứ ai không rời khỏi tổ ấm thì không thể trưởng thành được. Nhiều anh em vịn vào quy luật sinh tồn này khi bày tỏ nhu cầu với các bề trên muốn chuyển từ tu viện này sang tu viện khác. Một vài anh em khác lại có khuynh hướng ngược lại: thích ổn định để thư giãn bên lò sưởi dưới tiết trời se lạnh với đôi giày thật ấm áp. Với những anh em theo khuynh hướng thứ hai chịu khá nhiều tác động khi họ phải chuyển đến môi trường sống mới, vì họ đã trở nên gắn bó khắng khít với nơi ở cũ như mái ấm của họ, với những người xung quanh và với những sứ vụ đã rất đỗi quen thuộc. Bên cạnh đó, cũng có những anh em có khuynh hướng quân bình hơn. Họ có thể vui lòng tận hưởng sự ấm áp toả ra từ lò sưởi nhưng cũng rất sẵn lòng chịu đựng những gian khổ của cuộc hành trình mới. Qua hai khuynh hướng kể trên, câu hỏi đặt ra là: Vậy khuynh hướng sống của tôi là gì? Hai khuynh hướng trên chẳng có khuynh hướng nào đều tốt hoặc xấu cả. Nhưng việc nhận biết những khuynh hướng này giúp chúng ta dễ dàng nhận diện những cám dỗ thường trực luôn bủa vậy lấy chúng ta trong đời sống. Hành hương là một phần không thể thiếu trong tiến trình huấn luyện đời sống tu trì và đời sống kitô hữu của chúng ta. Do đó, chúng ta cần phải ao ước được Thần Khí Chúa ở lại và tác động cách thánh thiện nơi mình[7], hầu giúp chúng ta bước đi trên đường lối của Thiên Chúa. Hành hương không phải để thoả mãn khát vọng muốn khám phá đó đây, nhưng đó là một hành trình phát triển tâm linh cách tiệm tiến. Trong mọi hoàn cảnh của đời sống, chúng ta hãy cầu xin Chúa giú[8]p chúng ta biết bản thân phải làm gì. Vì tôi nghĩ rằng dù xét ở phương diện cá nhân hay cộng đoàn tu trì, chúng ta đều háo hức muốn lên đường.
fr. Pior Stanislawczyk, OFMConv.
Tổng thư ký đặc trách huấn luyện
Tổng thư ký đặc trách huấn luyện
Nguồn: https://www.ofmconv.net/en/pregare-con-i-piedi/
Chuyển ngữ: fr. Giuse Lê Phạm Viết Hoàng, OFMConv.
[1] Hiến chương (2019), số 16, §1.
[2] Xc. Słownik teologii biblijnej, edited by X. Leon-Dufour, Poznań 1994, pp. 660-662.
[3] Xc. Katechizm Kościoła Katolickiego, Poznań 1994, nos. 1198, 2691.
[4] Xc. Lsc, ch. 6, cc. 2-3; Đường hướng huấn luyện, số 90; 122; Testtament, no. 24.
[5] Xc. Lázaro Iriarte, OFM Cap., Pielgrzym, in: Leksykon duchowości franciszkańskiej, edited by E. Kumka, OFM Conv., Cracow-Warsaw 2016, pp. 1227-1238.
[6] Xc. Maksymilian Maria Kolbe, and Antonella Di Piazza The Writings of St. Maximilian Maria Kolbe. Volume 1. Letters. To Br. Alfons Kolbe, Cracow. Rome, April 21, 1919. Rome Nerbini International, 2016, pp. 379-81.
[7] Xc. Lsc, ch. 10; Đường hướng huấn luyện, số 104.